🕹️ Cái Chết Của La Hầu La
Mời quý vị theo đọc loạt truyện về hạnh của ngài La Hầu La Đệ Nhất Mật Hạnh. Phần 1: Sự ra đời của La Hầu La - người con duy nhất của đức Phật khi chưa xuất gia. Phần 2: Tôn giả La Hầu La - Sa di đầu tiên của đức Phật. 6. Sa di có thể ở chung với Tỳ kheo
Cái chết thảm của 'nữ thần bài'. Mỹ Triệu Tô Xuyến với tài tính toán hơn người đã liên tục thắng bạc khi chơi Poker song với cô tiền thưởng không phải là mục đích. Tháng 8/2020, một thi thể phụ nữ cháy đen được phát hiện dưới hầm để xe khu vui chơi ở bang
Định luật Murphy lý giải 'cái chết' của tình yêu. Trong phim 'London Life' có một câu thoại: 'Kẻ yếu đuối không giỏi việc yêu. Để yêu ai đó cần phải có hy vọng'. Tình yêu cũng giống như một tấm gương phản chiếu. Xuyên qua người kia, bạn có thể nhìn thấy bóng dáng của
Andree Right Hand 2008 Download Link : http://www.megaupload.com/?f=MV4DX0CYwww.gvrproduction.netVietRapLyric:mel : dòng đời cứ trôi , trôi ko nhẹ
Thơ - Hay là cái chết của thời gian. 1. Về thơ như là một tổ chức ngôn ngữ quái đản. Tiểu luận Thơ là gì 1) là một bài viết rất đặc trưng cho phong cách của ông Phan Ngọc: nhiều tâm huyết nhưng cũng nhiều võ đoán.
The heat death of the universe (also known as the Big Chill or Big Freeze) [1] is a hypothesis on the ultimate fate of the universe, which suggests the universe will evolve to a state of no thermodynamic free energy and will, therefore, be unable to sustain processes that increase entropy. Heat death does not imply any particular absolute
Kết Thúc Của Nhân Vật Phản Diện Chỉ Có Thể Là Cái Chết – Chap 102. Đăng lúc 23:18 20/10/2022 · 0 · 0.
Phần 1: 1. La Hầu La - Cậu bé Hạnh phúc. Đức Phật của chúng ta khi còn là thái tử của vương thành Ca-tỳ-la, đã kết hôn với công chúa Dadu- đà-la thành Câu-lợi. Vào năm thái tử và công chúa mười chín tuổi, sanh hạ La Hầu La. Thái tử rất vui mừng, nhưng đó không phải là
☑️ Đọc truyện tranh Kết Cục Của Nhân Vật Phản Diện Chỉ Có Thể Là Cái Chết Chap 102 Tiếng Việt bản đẹp chất lượng cao, cập nhật nhanh và sớm nhất tại DocTruyen3Q
Yv3mw. La Hầu La được xuất gia học đạo lúc 7 tuổi, do đó ý nghĩ, lời nói, hành động còn thô tháo. Phật bảo La Hầu La rằng “Con hãy về ở tịnh xá Hiền Độ, giữ miệng nhiếp ý, siêng tu giới hạnh”. La Hầu La vâng theo lời Phật về ở tịnh xá Hiền Độ 90 ngày, sám hối ăn năn hành trì ngày đêm không dừng nghỉ. Đức Phật đến thăm và bảo La Hầu La rằng Con hãy bưng chậu nước sạch đến đây để rửa chân cho ta. La Hầu La vâng lời rửa chân cho Phật. Khi rửa chân xong, Phật hỏi La Hầu La Con có thấy nước rửa chân trong chậu kia không? Kính bạch Thế Tôn, con đã thấy nước ấy đã dơ bẩn rồi! Vậy nước ấy có thể dùng để ăn uống, súc miệng hay rửa mặt được không? Đức Phật hỏi tiếpKính bạch Thế Tôn, nước ấy không thể dùng xài bình thường được vì đã nhiễm bẩn nhơ đục. Phật dạy tiếp Ngươi là con ta, cháu nội vua Tịnh Phạn, nay đã xuất gia học đạo giác ngộ giải thoát bỏ sự vui sướng tạm bợ ở đời, làm Sa môn Thích tử nếu không siêng năng tinh tấn, giữ thân miệng ý trong sạch thì phải bị phiền não tham, sân, si làm vẫn đục tâm ý, cũng như nước dơ kia không thể dùng được! Nói xong Phật dạy tiếp Con hãy đổ chậu nước dơ kia đi! La Hầu La liền vâng lời làm nói Chậu kia nay đã không còn nước dơ bẩn nữa, vậy có thể dùng để đựng đồ ăn uống được không? Kính bạch Thế Tôn, không thể dùng được vì đã nhiễm bẩn. Phật dạy La Hầu La Con cũng như vậy, tuy làm Sa môn mà không giữ gìn thân miệng ý trong sạch, giống như cái chậu dơ kia, không thể đựng đồ ăn uống được. Nói xong, Phật lấy chân đạp mạnh cái chậu khiến nó chạy lăn tròn, nghiêng ngã qua lại vài lần rồi mới dừng lại. Phật bảo La Hầu LaCon bây giờ có còn tiếc cái chậu này không? Kính bạch Thế Tôn, cái chậu rửa chân kia là vật không còn giá trị nữa. Trong thân tâm con, tuy có tiếc rẻ đôi chút nhưng nó không còn làm cho con quyến luyến nữa. Phật bảo La Hầu La Con cũng như vậy, tuy làm Sa môn nhưng không nhất tâm tu hành để thân miệng ý làm não loạn khiến nhiều người buồn phiền, khi chết đọa ba đường dữ, các bậc Hiền thánh không ai thương tiếc giống như cái chậu kia. La Hầu La khi nghe lời Phật dạy, lấy làm hổ thẹn và ăn năn sám hối những lỗi lầm đã phạm phải. Đây là câu chuyện mang đậm chất triết học Phật giáo trong nền văn hóa giáo dục Phật giáo Ấn Độ, thể hiện nhân cách đạo đức sống của một người tu hành vì lợi ích tha nhân. Trong cuộc sống, người thầy giỏi là người khéo léo chỉ dạy tùy theo căn cơ trình độ hiểu biết của mọi người. Đức Phật đã dùng phương tiện thiện xảo bằng cách hỏi đáp để cho La Hầu La phải dùng trí tuệ để soi sáng mới nhận ra bí quyết tu hành. Thế Tôn, trong phương pháp giáo dục của Ngài đối với các đệ tử theo nguyên tắc “khế cơ”, “khế lý”, “khế thời”, vừa “khích lệ”… lại vừa vận dụng các thí dụ với các hình ảnh cụ thể, quen thuộc trong công việc thường ngày để hướng dẫn chỉ dạy cho người nghe thấy được tác hại của nó mà quyết tâm dứt trừ. Hình ảnh nước dơ trong chậu là ẩn dụ cho phiền não tham sân si của mỗi người, nhằm giúp ta quán xét lại chính mình, bởi lỗi lầm phát sinh là do không chánh niệm tỉnh giác trong từng phút giây. Tu là sửa, là gội rửa thân tâm dính mắc vào mọi hiện tượng sự vật rồi sinh ra chấp trước mà thấy có ta người chúng sinh, nên chịu luân hồi sống chết trong vô số kiếp mà không có ngày ra khỏi. Chúng ta thật diễm phúc thay mới được Thế Tôn sử dụng những phương pháp giáo dục rất thực tế, rõ ràng minh bạch, dễ hiểu nhằm thức tỉnh tâm loạn động mà quay lại sống với tâm Phật sáng suốt ngay nơi thân này. Khi các đệ tử của Ngài bị ràng buộc bởi bóng tối vô minh thì Phật dùng ánh sáng trí tuệ để chuyển hóa, khi khổ đau thì dùng hạnh phúc để xóa tan bao phiền muộn. Qua câu chuyện trên, Thế Tôn đã chỉ cho chúng ta một phương pháp giáo dục rất khoa học và nhân bản nhằm đánh thức tiềm năng của mỗi người mà biết cách làm chủ bản thân qua thân, miệng, ý. Thế Tôn đã xuất hiện ở đời như một nhà giáo dục mang nặng sắc thái đậm chất con người qua nhiều câu chuyện ngụ ngôn, thí dụ nhằm khai mở trí tuệ tự tâm mà chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
Đức Phật sau khi giác ngộ đã trở về quy y cho Nàng Gia-du-đà-la, La-hầu-la và hướng dẫn họ tu tập. Vậy vợ con của Thái tử Tất Đạt Đa đã nhập diệt khi nào? Trước hay sau khi đức Phật nhập diệt? Tỳ-kheo ni Gia-du-đà-la, mẫu thân của La-hầu- la nhập diệt vào năm bảy mươi tám tuổi, trước khi đức Phật nhập diệtPhần này nói về sự nhập diệt của Nàng Gia-du-đà-la vợ và tôn giả La-hầu-la Con trai duy nhất của Thái tử Tất Đạt Đa nhập diệt khi nào. Những nhân vật oanh liệt trong Tăng đoàn thuở ấy là Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Đại Ca-diếp, A-nan… còn La-hầu-la thì không, một người nghiêm túc trong mật hạnh trì giới, chỉ im lặng tu tập, im lặng không tranh đua với thế gian. Hoặc là vì La-hầu-la quan hệ đến đức Thế Tôn, nên Ngài đặc biệt hạn chế tôn giả. Chúng ta cũng biết La-hầu-la có tư cách nhu thuận, bẩm chất kiên cường, nhưng chúng ta cũng thấy trong sinh hoạt của một vị Tỳ-kheo Tôn giả không phải là người sôi nổi. Cho nên trong kinh sử không thấy ghi lại những sự tích La-hầu-la nhiệt tình thuyết pháp, hay nghị luận với ngoại đạo. Đúng như lời đức Thế Tôn nói, Tôn giả là người nghiêm túc trong tế hạnh, trong giới luật, là một vị Mật hạnh đệ nhất. La-hầu-la nhập diệt khi nào, cũng như năm tháng đản sanh của Tôn giả, có hai truyền thuyết. Có thuyết nói, thái tử Tất-đạt-đa năm mười chín tuổi hạ sanh La-hầu-la. Có thuyết lại nói đến năm Ngài hai mươi lăm tuổi mới hạ sanh La-hầu-la. Về năm diệt cũng có hai thuyết, một thuyết nói Tôn giả nhập Niết-bàn trước đức Phật vài năm, thuyết khác nói, khi đức Phật nhập Niết-bàn, Tôn giả còn quỳ bên giường. Tuy nhiên, Ấn-Độ là một nước không mấy chú trọng về lịch sử, còn Trung Hoa chúng ta cũng không ít nhà phiên dịch phóng đại và tưởng tượng huyễn hoặc. Những sự tích lặt vặt về cuộc đời đức Thế Tôn và các vị Thánh đệ tử được ghi chép trong kinh điển, thật cũng có ít nhiều cắt xén. Căn cứ theo ký sử có thể khảo cứu qua kinh điển, thì Tỳ-kheo ni Gia-du-đà-la, mẫu thân của La-hầu-La nhập diệt vào năm bảy mươi tám tuổi, và La-hầu-la nhập diệt được kể là sớm hơn. Vào một buổi chiều, mẹ của La -hầu-la đã suy tư đến rất nhiều sự việc. Bà nghĩ Kiều-đàm-di, Liên Hoa Sắc đều đã nhập Niết-bàn, La-hầu-la cũng nhập Niết-bàn. Ta sanh đồng một năm với đức Phật, năm nay ta đã bảy mươi tám tuổi, nghe nói đức Phật sẽ nhập Niết bàn vào năm tám mươi tuổi. Nghĩ đến chuyện ta nhập diệt đồng một lúc với Ngài, tuy hiện tại đối với đức Phật chỉ có pháp tình mà không có tình riêng gì khác, nhưng chuyện ấy là một điều bất kính, chi bằng ta nhập diệt sớm là tốt hơn. Gia-du-đà-la được đức Phật hứa khả, hướng về Phật đảnh lễ cảm tạ xong, bèn hiện thần thông bay lên hư không mà đi. Và đêm đó bà ở trong phòng nhập định Niết-bàn. Căn cứ vào ký sự nhập diệt của Gia-du-đà-la thì La-hầu-la đã nhập diệt trước cả bà và đức Phật. Và theo đó, tính tuổi của Tôn giả không quá sáu mươi. Đại khái Tôn giả chỉ sống trên năm mươi năm là cùng. Đương nhiên, đối với một vị thánh thì xem cái chết, dù sớm hay muộn cũng là chuyện thường. Bỏ sắc thân hư huyễn giả dối này, đem sanh mạng an trụ trong lý thể pháp tánh, chuyện ấy không có gì phải buồn, trái lại đó là một sự hạnh phúc. La-hầu-la vào năm hai mươi tuổi đã khai ngộ chứng quả, cái mục đích tối hậu của đời người đã đạt được thì khi nhập diệt nhất định là an nhiên vi tiếu mà ra đi. La-hầu-la zh羅 睺 羅; si, pi rāhula hán dịch là Phú Chướng, nghĩa là "sự chướng ngại", một trong thập đại đệ tử của Phật. Ông cũng là người con duy nhất của Phật tổ Tất-đạt-đa Cồ-đàm trước khi Phật xuất gia. Mẹ của La-hầu-la là hoàng hậu Gia-du-đa-la si yaśodharā. La-hầu-la được sinh ra năm 608 TCN, khi thái tử Tất-đạt-đa lúc ấy đã 29 tuổi, quyết định rời bỏ gia đình và đi tìm chân lý đích thực. Nhiều người cho rằng đó là hành vi "vô trách nhiệm" đối với một người cha. Tuy nhiên sau này có thể thấy chính Phật là người đích thân dạy dỗ con trai mình trên con đường đạt đạo. Nhờ vậy La-hầu-la đã sớm giác ngộ khi mới ngoài 20 tuổi [1]. La-hầu-la được tôn giả Xá-lợi-phất s śāriputra đưa vào Tăng-già từ lúc bảy tuổi và mất trước Phật, có lẽ khi chưa đến 50 tuổi[2][3] khoảng năm 560 TCN.
cái chết của la hầu la